Tư Duy Nhanh Và Chậm

Daniel Kahneman

Thể loại:

Tóm tắt

Tư duy nhanh và chậm của Daniel Kahneman là sự đúc kết nghiên cứu từ nhiều thế kỷ, đưa ông đến với giải thưởng Nobel. Cuốn sách giải thích sự đóng góp lớn lao của ông trong sự hiểu biết của chúng ta ngày nay đối với tâm lý học và kinh tế học hành vi. Trong nhiều năm qua, Kahneman và các đồng nghiệp đã có những đóng góp đáng kể trong cách hiểu của chúng ta về lý trí  con người. Công trình nghiên cứu của họ được viết cụ thể trong cuốn sách, nhờ đó chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn về cách chúng ta đưa ra quyết định, tại sao chúng ta mắc chung một số lỗi phán xét và làm thế nào để tiến bộ hơn.

Ai nên đọc cuốn sách này?

  • Những ai muốn biết lý trí chúng ta hoạt động như thế nào; cách thức chúng ta giải quyết các vấn đề, đưa ra phán xét hay những lỗi phổ biến của con người.
  • Những ai hứng thú với công trình nghiên cứu đạt giải Nobel của Daniel Kahneman và những đóng góp của ông trong tâm lý học và kinh tế học hành vi cũng như các ứng dụng trong đời sống thực tế.

Về tác giả

Tiến sỹ Daniel Kahneman đạt giải Nobel kinh tế học năm 2002. Ông là một học giả cấp cao của trường công vụ và ngoại giao Woodrow Wilson – giảng viên môn tâm lý học và công vụ, giảng viên tâm lý học tại trường Princeton và là một thành viên của Trung tâm Lý Tính tại Đại học Hebrew ở Jerusalem.

Hành vi của chúng ta là hệ quả kết hợp của 2 trung tâm điều khiển của bộ não: một bên tự động và một bên cân nhắc

Bên trong bộ não diễn ra những cuộc đối thoại, chẳng khác gì những phân cảnh đối thoại giữa hai nhân vật chính chúng ta vẫn thấy trong phim với đầy đủ mâu thuẫn, cao trào, căng thẳng. Hai nhân vật chính này gồm: 1) Hệ thống 1 – bốc đồng, cảm tính và vô thức, 2) Hệ thống 2 –   chín chắn, cân nhắc và tính toán. Khi hai hệ thống này tương tác, chúng sẽ ảnh hưởng đến cách suy nghĩ, phán xét, quyết định và hành động của chúng ta. Phần não của hệ thống 1 thường hoạt động một cách cảm tính và đột ngột, thông thường không chịu sự kiểm soát của ý thức. Khi bạn đột nhiên nghe một âm thanh lớn và bất ngờ nổ ra, bạn tự động, ngay lập tức hướng về phía âm thanh. Đó chính là hệ thống 1.

Khả năng phán đoán nhanh và phản ứng tức thời chính là những lợi thế sinh tồn – một di sản tiến hóa nằm trong hệ thống 1 mà chúng ta thừa hưởng được.

Phần não của hệ thống 2 chúng ta sử dụng để tự hình dung và cân nhắc khi xử lý cách hành động có ý thức chẳng hạn như khả năng tự kiểm soát, các lựa chọn và chủ ý tập trung. Chẳng hạn như khi ta chú tâm vào tìm một cô gái trong đám đông. Trí não chúng ta sẽ hết sức tập trung vào nhiệm vụ, hồi trưởng lại các đặc điểm cá nhân để xác định được cô gái. Trí não có khả năng bỏ qua cả những chi tiết gây phân tán tư tưởng, ví dụ như những người khác trong đám đông. Nếu giữ được tập trung, bạn có thể tìm ra cô gái trong vòng vài phút. Nếu bị phân tán, khả năng tìm được cô gái sẽ thấp dần.

Mối liên hệ giữa hai hệ thống này điều khiển hành vi của ta. Tùy vào hệ thống nào đang “chỉ huy”, tâm trạng của bạn (dù thảnh thơi hay căng thẳng) sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp.

Trí não lười biếng gây ra những sai lầm và ảnh hưởng đến trí tuệ của ta

Một ví dụ kinh điển về quả bóng và cây gậy sau đây sẽ hé lộ về cách bộ não chúng ta hoạt động. Bạn mất 1.10 đô để mua một cây gậy và một quả bóng. Cây gậy đắt hơn quả bóng 1 đô. Hỏi quả bóng giá bao nhiêu tiền?

Hầu hết chúng ta sẽ cho đáp án 0.1 đô ngay lập tức. Đây là hệ quả của hệ thống 1: cảm tính và tự động. Đó là một kết quả sai, hãy thử làm lại xem.

Bạn có tự tìm ra lỗi của mình không? Đáp án đúng là 0.05 đô.

Trong lần trả lời đầu tiên, hệ thống 1 đóng vai trò chỉ huy và ngay lập trức dựa vào trực giác để trả lời. Tuy nhiên, nó đã trả lời hấp tấp.

Thông thường khi xử lý một tình huống phức tạp, hệ thống 1 kêu gọi trợ giúp của hệ thống 2. Tuy nhiên ở bài toán trên hệ thống 1 bị bài toán đánh lừa và nghĩ rằng bài toán khá đơn giản. Do đó nó nhầm tưởng rằng sẽ tự giải quyết được.

Ví dụ về quả bóng và cây gậy này cho thấy bản năng lười biếng của chúng ta. Trong các hoạt động trí não, chúng ta có xu hướng chỉ dùng một lượng năng lượng tối thiểu cho mỗi nhiệm vụ đặt ra. Chúng ta gọi nó là thuyết nỗ lực tối giản. Kêu gọi trợ giúp từ hệ thống 2 tốn nhiều năng lượng cho nên trí não của chúng ta sẽ không làm việc đó nếu nó nghĩ rầng hệ thống 1 có thể xử lý được.

Sự lười biếng này thật đáng tiếc bởi hệ thống 2 vô cùng quan trọng đối với trí tuệ của chúng ta. Nghiên cứu chỉ ra, việc rèn luyện các kỹ năng của hệ thống 2, chẳng hạn như tập trung và kiềm chế, dẫn đến chỉ số thông minh cao hơn. Quay trở lại ví dụ quả bóng và cây gậy, nếu trí óc chúng ta quen với hệ thống 2, chúng ta đã có thể tránh được những lỗi phổ biến.

Nói các khác, khi lười biếng và bỏ qua hệ thống 2, chúng ta hạn chế sức mạnh trí tuệ của mình.

Trạng thái tự động: Tại sao chúng ta không kiểm soát được suy nghĩ và hành động

Bạn nghĩ gì khi nhìn thấy từ có chỗ trống như sau “SO_P”? Có lẽ bạn không có ý tưởng nào. Nhưng nếu thoạt đầu bạn thấy từ “EAT”, thì có lẽ khi nhìn vào từ trống trên bạn sẽ nghĩ đến “SOUP”. Quá trình này gọi là priming (nhử mồi).

Chúng ta bị nhử khi chúng ta thấy một từ, một khái niệm hoặc một hiện tượng khiến chúng ta liên tưởng đến một từ hay một khái niệm liên quan. Nếu từ bạn nhìn thấy lúc trước không phải “EAT” mà là “BATH”, có lẽ bạn sẽ nghĩ đến từ “SOAP”.

Những mồi nhử này không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ mà còn ảnh hưởng hành động và cư xử của chúng ta. Cũng giống như bộ não, cơ thể cũng có những phản ứng tương tự. Kết quả từ một cuộc khảo sát cho thấy người tham gia bị ảnh hưởng khi nghe các từ liên quan đến tuổi già chẳng hạn như “Florida” và “nếp nhăn” nên bắt đầu đi chậm lại so với bình thường.

Điều bất ngờ là những phản xạ kiểu mồi nhử này hoàn toàn vô thức, chúng ta thậm chí không nhận ra mình bị tác động.

Điều này chứng tỏ rằng, chúng ta không hoàn toàn làm chủ ý thức trong hành động, phán xét và các lựa chọn. Thực tế, chúng ta bị tác động bởi những điều kiện xã hội và văn hóa quanh mình.

Chẳng hạn như một nghiên cứu của Kathleen Vohs cho thấy, ý tưởng về tiền có thể nhử người ta có những tính toán cá nhân. Ví dụ, khi liên tưởng đến tiền (chẳng hạn nhìn thấy một hình ảnh về tiền) người ta sẽ hành động một cách cá nhân và không sẵn lòng hợp tác, không dựa dẫm hay chấp nhận yêu cầu của người khác. Một hàm ý trong nghiên cứu của Vohs đó là sống trong một xã hội chất chứa những mồi nhử về tiền có thể khiến con người ta mất hết lòng vị tha.

Mồi nhử cũng giống như những yếu tố xã hội khác, tác động lên suy nghĩ cá nhân, từ đó đến các lựa chọn, phán quyết và hành vi – đổi lại những thứ này cũng phản ánh văn hóa cũng như phẩm chất của xã hội mà chúng ta đang sống.

Võ đoán: trí óc quyết định rất nhanh, ngay cả khi nó không có đủ thông tin để đưa ra quyết định hợp lý

Tưởng tượng bạn gặp Ben tại một bữa tiệc và bạn thấy Ben rất thân thiện, dễ nói chuyện. Sau đó bạn nói chuyện với một người khác và người đó hỏi bạn có biết ai có thể sẽ đóng góp cho việc từ thiện của họ không. Bạn nghĩ ngay đến Ben mặc dù điều duy nhất bạn biết về anh ta là anh ta rất thân thiện. Nói cách khác là bạn thích một tính cách nào đó của Ben và bạn giả định rằng bạn sẽ thích mọi thứ về anh ta. Chúng ta thường chấp nhận hay gạt bỏ một người ngay cả khi chúng ta biết rất ít về họ.

Trí óc của chúng ta chiều hướng đơn giản hóa mọi việc mà không cần thông tin đầy đủ, dẫn đến việc chúng ta phán xét sai. Điều này gọi là “cường điệu hóa cảm xúc”, hay cũng được gọi là hiệu ứng hào quang. Bạn gắn lên Ben một ánh hào quang trong khi chẳng biết gì nhiều về anh ta.

Đây không phải là cách duy nhất mà trí não chúng ta đi tắt trong việc đưa ra nhận xét.

Một cách mắc sai lầm khác là: xu hướng đồng tình với những ý kiến, những phóng đại hay những niềm tin chúng ta có từ trước, gọi là thiên kiến xác nhận.

Chúng ta sẽ nhận ra điều này khi tự hỏi bản thân: “James có thân thiện không?”. Nghiên cứu chỉ ra, khi chúng ta chỉ hỏi duy nhất câu hỏi này, chúng ta dễ dàng kết luận rằng James rất thân thiện – bởi trí óc chúng ta tự động xác nhận gợi ý. Hiệu ứng hào quang và thiên kiến xác nhận xảy ra cùng lúc trí óc hào hứng muốn đưa ra nhận định. Thật không may là điều này thường dẫn đến ngộ nhận vì chúng ta không có đủ thông tin để đưa ra nhận xét. Trí óc kết luận dựa trên những gợi ý lạc hướng và đơn giản hóa các chi tiết để bù đắp cho các thông tin bị thiếu, dẫn đến việc đưa ra các kết luận sai.

Cũng giống như mồi nhử, các hiện tượng nhận thức này xảy ra và chúng ta không tự ý thức được trong khi chúng cũng tác động lên các lựa chọn, phán xét và hành động.

Phỏng đoán: trí óc sử dụng đường tắt để đưa ra quyết định như thế nào

Thông thường chúng ra cần nhận định tình huống một cách nhanh chóng. Để giúp sức, trí óc chúng ta đưa ra một đường tắt để chúng ta có thể ngay lập tức nhận biết chuyện gì đang xảy ra xung quanh. Đường tắt này gọi là: phỏng đoán.

Trong hầu hết các trường hợp, các đường tắt này rất hữu dụng, nhưng trí óc lại hay lạm dụng chúng. Sử dụng đường tắt trong các trường hợp không cần thiết gây ra những sai sót. Có hai loại phỏng đoán mà chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về tác động của chúng: Phỏng đoán thay thế và phỏng đoán sẵn có.

Phỏng đoán thay thế là khi chúng ta đưa ra đáp án cho câu hỏi dễ hơn câu hỏi thực.

Hãy nghĩ về câu hỏi này: “Cô ấy là ứng viên cho chức cảnh sát trưởng. Cô ấy có thể thành công đến đâu trong vị trí này?”. Chúng ta sẽ tự động trả lời một câu hỏi đơn giản hơn: “trông cô ta có ra dáng một cảnh sát trưởng không?”. Thay vì tìm hiểu thân thế và năng lực của ứng viên, chúng ta chỉ quan tâm xem cô ta trông có giống với tưởng tượng của chúng ta về một vị cảnh sát trưởng không. Thật không may là nếu cô ta trông không giống những gì chúng ta kỳ vọng về 1 vị cảnh sát thì chúng ta sẽ từ chối nhận cô ấy, dẫu rằng cô ấy có hàng nhiều năm kinh nghiệm chống tội phạm và là một ứng viên tốt nhất.

Kế đến là phỏng đoán có sẵn là khi chúng ta đánh giá cao  xác suất của những thứ chúng ta đã nghe quen tai hoặc dễ nhớ.

Thí dụ chứng đột quỵ gây ra nhiều tử vong nhiều hơn tai nạn. Tuy nhiên, một khảo sát cho thấy 80% người trả lời cho rằng tử  vong do tại nạn xảy ra thường xuyên hơn. Nguyên nhân là do chúng ta nghe đến tử vong trong tai nạn qua truyền thông nhiều hơn và ghi nhớ nỗi sợ đó nên chúng ta phản ứng thái quá với mối nguy này.

Không để tâm đến  các con số: vì sao chúng ta không hiểu nổi số liệu và gây ra những lỗi hoàn toàn có thể tránh được

Làm sao chúng ta đoán biết được chắc chắn chuyện gì sẽ xảy ra?

Một cách hữu hiệu là dựa vào tỷ lệ cơ sở – chính là cơ sở dữ liệu dùng trong thống kê. Ví dụ như một công ty taxi có 20% xe màu vàng và 80% xe màu đỏ. Nghĩa là tỷ lệ giữa vàng và đỏ là 20 – 80. Nếu bạn gọi một chiếc taxi và muốn đoán xem nó là xe màu gì, dựa trên tỉ lệ cơ sở, khả năng bạn đoán trúng là rất cao.

Như vậy thì chúng ta phải luôn ghi nhớ tỷ lệ cơ bản khi suy đoán một sự việc, thật không may là chúng ta thường xuyên không nhớ điều này. Trên thực tế bỏ qua tỷ lệ cơ sở là một lỗi phổ biến. Một lý do khiến chúng ta bỏ qua tỷ lệ cơ sở là vì chúng ta thường tập trung vào những gì chúng ta kỳ vọng hơn là những gì có khả năng xảy ra. Trở lại với những chiếc taxi, nếu bạn thấy 5 chiếc xe đỏ đi qua, bạn sẽ bắt đầu nghĩ chiếc tiếp theo chắc chắn phải là màu vàng. Thực ra, cho dù có bao nhiêu chiếc xe (cả vàng lẫn đỏ) đã đi qua thì xác suất chiếc xe tiếp theo là đỏ vẫn là 80% – tuân theo tỷ lệ cơ sở, chúng ta phải nhận ra điều này. Thế nhưng chúng ta lại kỳ vọng sẽ thấy một chiếc màu vàng, nên khả năng cao là chúng ta sẽ sai.

Bỏ qua tỷ lệ cơ sở là một lỗi phổ biến liên quan đến những vấn đề xác suất khác. Chúng ta thường quên rằng mọi thứ sẽ quay trở lại khoảng trung bình. Mọi thứ quanh ta đều có khoảng trung bình, do đó, các biến động cuối cùng đều chạy về khoảng trung bình đó.

Chẳng hạn như một tiền đạo bóng đá trung bình ghi 5 bàn mỗi tháng đột nhiên ghi 10 bàn trong tháng 9. Huấn luyện viên chắc sẽ vui mừng khôn xiết, nhưng vị huấn luyện viên chắc chắn sẽ không hài lòng nếu vận động viên này tiếp tục ghi 5 bàn trong các tháng còn lại và sẽ khiển trách cầu thủ này đã không giữ được phong độ. Tuy nhiên, cầu thủ này không đáng bị khiển trách vì lẽ thường là xác suất ghi bàn sẽ quay lại điểm trung bình.

Quá khứ chưa hoàn thành: vì sao chúng ta ghi nhớ những nhận định rút kinh nghiệm chứ không phải thực tế

Trí não không ghi lại kinh nghiệm một cách chân thật. Có hai cơ chế ghi nhớ đều gọi là bộ nhớ nhưng chúng ghi nhớ các tình huống theo cách khác nhau.

Đầu tiên là bộ nhớ thực nghiệm sẽ ghi lại cảm giác của hiện tại. Nó trả lời câu hỏi: “bây giờ bạn cảm thấy sao?”.

Sau đó là bộ nhớ hồi tưởng sẽ ghi lại toàn bộ sự kiện sau khi nó xảy ra. Nó trả lời câu hỏi: “nhìn chung bạn thấy thế nào?”.

Bộ nhớ thực nghiệm phản ánh cảm nhận chân thực hơn bởi cảm giác của chúng ta trong suốt quá trình xảy ra sự việc luôn xác thực. Nhưng bộ nhớ hồi tưởng thì không chân thực bằng vì nó ghi lại sự kiện sau khi nó đã kết thúc và lấn át ký ức.

Có hai lý do giải thích vì sao bộ nhớ hồi tưởng có thể lấn lướt bộ nhớ thực nghiệm. Thứ nhất là thời gian bị bỏ rơi: bộ nhớ bỏ qua toàn bộ sự kiện để tập trung nhớ một chi tiết. Thứ hai là quy tắc cao điểm cuối: bộ nhớ nhấn mạnh vào cao điểm và những chi tiết xảy ra sau cùng.

Minh chứng cho sự lấn lướt này là một thực nghiệm với cơn đau của các bệnh nhân mổ nội soi. Trước khi mổ, bệnh nhân được chia làm hai nhóm: nhóm một trải qua một cuộc phẫu thuật nội soi kéo dài, nhóm hai cuộc phẫu thuật diễn ra nhanh chóng hơn nhưng cơn đau sẽ tăng dần cho đến khi ca mổ hoàn thành.

Chắc bạn sẽ nghĩ những bệnh nhân không hài lòng nhất là những bệnh nhân đã phải trải qua cuộc phẫu thuật dài vì họ phải chịu đựng cơn đau trong thời gian lâu hơn. Chắc chắn họ thấy đau trong quá trình phẫu thuật. Xác nhận bằng cách hỏi trực tiếp bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân nhóm một  cảm thấy đau đớn hơn  bởi bộ nhớ  thực nghiệm đang đưa ra câu trả lời. Tuy nhiên, sau ca phẫu thuật bộ nhớ  hồi tưởng giành quyền kiểm soán do đó đánh giá của những bệnh nhân nhóm hai  thấy rằng họ là nhóm cảm thấy đau đớn hơn. Đây là minh chứng rõ ràng cho hiện tượng thời gian bị bỏ rơi, quy tắc cao điểm cuối và ký ức bị lỗi của chúng ta.

Tâm trên vật: Điều chỉnh sự tập trung của trí não ảnh hưởng đáng kể đến suy nghĩ và hành động

Trí não sử dụng cường độ năng lượng khác nhau cho mỗi nhiệm vụ. Khi không cần huy động sự tập trung và cần ít năng lượng để vận hành, trí não ở trong trạng thái nhận thức cảm tính . Ngược lại khi cần huy động sự tập trung và nhiều năng lượng chúng ta chuyển sang trạng thái nhận thức lý tính .

Những thay đổi trong năng lượng của bộ não ảnh hưởng lớn tới hành vi. Trong trạng thái nhận thức cảm tính, hệ thống cảm tính số 1 chỉ huy bộ não và hệ thống số 2 sẽ nghỉ ngơi. Đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ trở nên cảm tính hơn, sáng tạo hơn và hạnh phúc hơn, đồng thời dễ dàng mắc sai lầm hơn.

Trong trạng thái nhận thức lý tính, nhận thức trở nên sắc bén hơn khi hệ thống số 2 đang chỉ huy bộ não. Chúng ta luôn trong tư thế sẵn sàng để kiểm chứng những phán xét mình đưa ra, do đó chúng ta sẽ trở nên ít sáng tạo hơn nhưng sẽ ít mắc lỗi hơn.

Ta cũng có thể tự điều chỉnh cường độ năng lượng cần cho bộ não khi làm một việc cụ thế nào đó. Chẳng hạn như khi bạn muốn một thông điệp trở nên thuyết phục hơn, hãy thúc đẩy  trạng thái nhận thức cảm tính .

Một cách là chúng ta có thể thay đổi cách tiếp nhận thông tin. Khi một thông tin được lặp đi lặp lại hoặc viết một cách dễ nhớ, nó sẽ trở nên thuyết phục hơn. Đó là do bộ não quen dần và phản ứng tích cực hơn với các thông tin được lặp lại một cách rõ ràng. Khi xử lý những thông tin quen thuộc, chúng ta sẽ rơi vào trạng thái nhận thức cảm tính.

Trạng thái nhận thức lý tính thường hữu dụng hơn khi xử lý các vấn đề số liệu. Chúng ta chuyển sang trạng thái này khi nhận được những thông tin khó hiểu, như một tin nhắn khó đọc. Bộ não trở nên hoạt bát, năng lượng tăng lên nhằm cố gắng hiểu vấn đề, và do đó chúng ta sẽ không dễ dàng bỏ cuộc.

Nắm bắt cơ hội: cách xác suất được trình bày ảnh hưởng cách chúng ta đánh giá rủi ro

Cách đánh giá ý  kiến và cách giải quyết vấn đề của chúng ta phụ thuộc phần nhiều vào cách chúng được truyền tải đến chúng ta. Những thay đổi dù nhỏ nhặt trong các chi tiết hoặc trọng tâm của một phát biểu hay câu hỏi có thể xoay chuyển cách chúng ta xử lý chúng. Minh chứng cho việc này là khi chúng ta đánh giá  rủi ro.

Có lẽ bạn nghĩ rằng một khi chúng ta xác định được xác suất rủi ro xảy ra, ai ai cũng sẽ phản ứng như nhau. Tuy nhiên sự thật không phải là như vậy. Ngay cả những xác suất đã được tính toán cẩn thận khi được trình bày bằng những cách khác nhau sẽ tạo ra những phản ứng khác nhau. Chúng ta đánh giá rằng một việc có khả năng xảy ra cao hơn khi nhìn vào tần số xảy ra của sự việc hơn là con số về mặt xác suất. Trong thí nghiệm Jones, các chuyên gia tâm thần được chia làm hai nhóm và được hỏi liệu có nên phóng thích Jones khỏi bệnh viện tâm thần. Thông tin nhóm 1 nhận được là: xác suất thực hiện các hành vi bạo lực của Jones là 10%” và thông tin nhóm 2 nhận được là: “cứ 100 bệnh nhân như Jones được thả ra khoảng 10 người sẽ gây ra bạo lực”. Kết quả cho thấy gấp đôi số người trong nhóm thứ 2 cho rằng không nên phóng thích Jones.

Một cách khác mà chúng ta bị phân tâm trước các thông tin số liệu mà, khoa học gọi là bỏ quên mẫu số (denominator neglect) – xảy ra khi chúng ta hoàn toàn bỏ qua số liệu và bị đánh lừa bởi những hình ảnh minh họa sinh động. Hãy đọc hai câu sau đây: “Thuốc này bảo vệ trẻ em khỏi căn bệnh X nhưng khả năng biến dị là 0.001%” so với “cứ 100,000 trẻ em dùng thuốc này thì 1 em sẽ bị dị dạng”. Mặc dù cả hai câu trên đều có cùng ý nghĩa nhưng câu thứ 2 miêu tả rõ ràng hơn về việc trẻ em bị dị dạng, điều này khiến bộ não tạo ra liên tưởng đến hình ảnh trẻ nhỏ vị dị hình, do đó sẽ khiến chúng ta từ chối dùng thuốc.

Chúng ta không phải robot: vì sao mỗi cá nhân không đưa ra quyết định dựa trên lý trí

Mỗi cá nhân đưa ra quyết định như thế nào? Một khoảng thời gian dài trước đây, một nhóm các nhà kinh tế học cho rằng chúng ta quyết định chỉ dựa vào lập luận lý trí. Chúng ta lựa chọn dựa trên thuyết hữu dụng – khi con người quyết định, thứ duy nhất họ xem xét và chỉ lựa chọn những phương án mang lại cho họ nhiều lợi ích nhất. Nhóm các nhà kinh tế học này xuất thân từ trường kinh tế học Chicago và học giả nổi tiếng nhất là Milton Friedman. Quan điểm của họ có thể dễ thấy qua ví dụ về thị trường tự do. Nhóm học giả này tranh luận rằng khi buôn bán trên thị trường, mỗi cá nhân là 1 Econs siêu lý trí. Họ có cùng một suy nghĩ và đánh giá giá trị của hàng hóa hay dịch vụ tùy theo nhu cầu. Chúng ta – mỗi Econs, chỉ sẵn lòng trả mức giá mà chúng ta thấy đáng.

Cũng giống như khi chúng ta xem xét hai chiếc xe hơi. Một chiếc có động cơ khỏe và đảm bảo an toàn còn chiếc kia thì động cơ hỏng hóc và dễ dàng gây ra cháy nổ. Theo thuyết hữu dụng, chiếc xe số 1 đương nhiên đáng giá hơn so với chiếc số 2. Các nhà kinh tế học tin rằng, đây chính là cách hiệu quả nhất để đánh giá giá trị hàng hóa và dịch vụ.

Tuy nhiên, chúng ta đều biết con người không phải là một loài lý trí – bộ não có những quy trình cũng như những đường tắt dẫn đến những phán xét sai lầm. Những quy trình như phán đoán, bỏ quên mẫu số đồng nghĩa với việc chúng ta hành động một cách vô lý và kỳ quặc. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta không phải là những Econs.

Linh tính: vì sao chúng ta không quyết định dựa vào lý trí mà lại bị ảnh hưởng bởi yếu tố tình cảm

Nếu như thuyết hữu dụng không giúp ích gì thì chúng ta trong chờ vào đâu?

Chính tác giả Daniel Kahneman đã đưa ra  thuyết kỳ vọng, phản bác lại thuyết hữu dụng khi chứng minh rằng thực tế khi chúng ta quyết định, không phải lúc nào chúng ta cũng dùng lý trí.

Hãy xem xét hai tình huống sau: tình huống 1, bạn nhận được 1,000 đô và sau đó bạn sẽ phải quyết định giữa việc sẽ nhận thêm chắc chắn 500 đô nữa HOẶC là cơ hội rút thăm trúng 1,000 đô nữa với xác suất 50%. Tình huống số 2, bạn nhận được 2,000 đô sau đó bạn sẽ phải quyết định giữa việc chắc chắn trả lại 500 đô HOẶC phải rút thăm để quyết định giữ lại hoặc trả lại 1,000 đô với xác suất 50%.

Xét về lý trí, ta sẽ quyết định giống nhau ở cả hai tình huống. Tuy nhiên, trong tình huống thứ nhất, hầu hết mọi người đều chọn phương án chắc chắn. Trong khi đó ở tình huống thứ 2, hầu hết mọi người chọn đánh cược.

Thuyết kỳ vọng giúp ta hiểu thêm về tình huống này. Có hai lý do khiến chúng ta mất lý trí khi quyết định, cả hai lý do này đều xuất phát từ lo ngại mất mát – chúng ta sợ bị mất hơn là cơ hội được. Lý do thứ nhất là do chúng ta đánh giá cao giá trị tham chiếu. Tình huống thứ nhất chúng ta bắt đầu với 1,000 đô, tình huống thứ 2 bắt đầu với giá trị 2,000 đô. Chính điều này quyết định việc chúng ta có muốn đánh cược hay không bởi nó phản ánh vị trí hiện tại của ta. Hiển nhiên lập luận dựa trên giá trị ban đầu ở đây là hoàn toàn không hợp lý, nhưng chúng ta không tránh khỏi điều này.

Lý do thứ 2, chúng ta rất nhạy cảm với sự sụt giảm: giá trị mà chúng ta ghi nhận đôi khi không phải là giá trị thực. Trong ví dụ này, đi từ 1,000 lên 1,500 có vẻ lớn hơn so với đi từ 2,000 đô xuống 1,500 đô, mặc dù giá trị tiền tệ đều như nhau.

Ảnh ảo: vì sao bộ não xây dựng bức tranh hoàn chỉnh  về vạn vật nhưng rốt cuộc chỉ là cả tin và sai lầm

Để hiểu được một tình huống, bộ não sử dụng liên kết nhận thức, tạo ra những hình ảnh để giải thích một ý tưởng hay khái niệm. Khi nói đến thời tiết, bộ não sẽ liên tưởng đến nhiều hình ảnh. Chúng ta có hình ảnh về mùa hè với những màu sắc rực rỡ hay ánh mặt trời chói chang.

Ngoài việc giúp chúng ta hiểu biết về vạn vật, những hình ảnh này cũng giúp chúng ta đưa ra quyết định.

Khi quyết định, chúng ta tham khảo các hình ảnh này rồi tạo ra các giả định và đưa ra kết luận. Ví dụ khi chúng ta băn khoăn nên mặc gì trong mùa hè, chúng ta dựa trên hình ảnh về thời tiết trong mùa hè để lựa chọn quần áo.

Vấn đề là chúng ta tin tưởng quá nhiều vào những hình ảnh này và bỏ qua những dữ liệu khác chúng ta nhận được. Dù là trong mùa hè nhưng dự báo thời tiết cho biết hôm nay sẽ hơi lạnh, tuy nhiên bạn sẽ vẫn ra đường với áo phông và quần short bởi vì đó là những hình ảnh về mùa hè mà trí óc cung cấp cho bạn. Để rồi bạn thấy mình co ro trong thời tiết lạnh.

Chúng ta thường xuyên quá tin tưởng vào những hình ảnh khiếm khuyết được tạo ra trong bộ não. May thay, có những cách giúp chúng ta khắc phục được nhược điểm này.

Một cách là hãy tận dụng các dự đoán tham khảo. Đừng chỉ nhìn vào những hình ảnh mang tính khái quát mà hãy nhớ lại những ví dụ thực nghiệm để phán đoán một cách chính xác hơn. Hơn nữa, bạn cũng có thể sắp xếp phương án dự phòng và chuẩn bị cho tình huống dự đoán sai.

Dựa vào sự chuẩn bị và phòng vệ, bạn có thể quyết định dựa trên những dấu hiệu rõ ràng hơn là những hình ảnh chung chung và thiếu chính xác.

Tóm tắt cuối

Thông điệp chính của cuốn sách:

Tư duy nhanh và chậm cho thấy chúng ta có hai hệ thống vận hành trong bộ não. Hệ thống số 1 hoạt động một cách bản năng và chẳng cần nhiều nỗ lực, hệ thông số 2 có sự suy xét thận trọng hơn và đòi hỏi nhiều tập trung hơn. Suy nghĩ và hành vi của chúng ta phụ thuộc vào hệ điều hành nào đang chỉ huy bộ não tại thời điểm xảy ra.

Daniel Kahneman cũng giải thích về hệ quả của một bộ bão lười biếng. Bộ não thường đi đường tắt để tiết kiệm năng lượng. Chúng ta không lường trước được điều này nên hậu quả là gây ra sai lầm khi bộ não quyết định quá nhanh. Chỉ bằng cách biết rằng, bộ não có thiên hướng lười biếng, hy vọng chúng ta sẽ biết cách phán quyết tốt hơn.

Những việc ta có thể làm:

Lặp lại thông tin nhiều lần!

Các thông tin sẽ trở nên thuyết phục hơn khi chúng ta tiếp xúc với nó nhiều lần. Khi một thông tin được lặp lại và không có dấu hiệu xấu thì chúng ta có thể xem là tốt.

Đừng bị ảnh hưởng bởi những xác suất hy hữu được tưởng thuật lại liên tục trên báo

Thiên tai và các tai nạn khác là những sự kiện đã xảy ra và hậu quả thường bị phóng đại bởi những hình ảnh liên quan tràn lan trên phương tiện thông tin đại chúng.

Bạn sẽ sáng tạo hơn và cảm tính hơn khi bạn có tâm trạng tốt

Khi bạn có tâm trạng tốt, phần não đề phòng và phân tích sẽ nghỉ ngơi. Do đó bộ não sẽ thả lỏng và quyền chỉ huy sẽ chuyển sang hệ thống cảm tính và suy nghĩ nhanh chóng khiến cho bạn trở nên sáng tạo hơn.

Photo credit: taisachhay

Người dịch: Hà Trần

Biên dịch: Ngọc Dung & TháiPH

Bình luận về bài viết này

search previous next tag category expand menu location phone mail time cart zoom edit close